THÔNG TIN SẢN PHẨM THUỐC MOLRAVIR 400MG BOSTON:
THÀNH PHẦN:
Molnupiravir: 400mg
CÔNG DỤNG:
Chỉ định
Thuốc Molravir 400mg chỉ định điều trị Covid-19 nhẹ đến trung bình ở người trưởng thành dương tính với xét nghiệm chẩn đoán SARS-CoV-2 và có ít nhất một yếu tố nguy cơ làm bệnh tiến triển nặng.
Dược lực học
Nhóm dược lý: Thuốc kháng virus tác dụng toàn thân, kháng virus trực tiếp.
Mã ATC: Chưa được phân loại.
Cơ chế hoạt động
Molnupiravir là tiền thuốc được chuyển hóa thành chất tương tự ribonucleosid N-hydroxycytidin (NHC).
NHC phân bố vào các mô và được phosphoryl hóa thành dạng ribobonucleosid triphosphat (NHC-TP) có hoạt tính dược lực. NHC-TP hoạt động theo cơ chế gây lỗi hàng loạt cho vi rút. NHC-TP gắn vào ARN của virus bằng enzym ARN polymerase và gây lỗi trong hệ gen của virus dẫn đến ức chế quá trình sao chép.
Hoạt tính kháng virus
Trong thử nghiệm nuôi cấy tế bào, NHC có hoạt tính chống lại SARS-CoV-2 với nồng độ hiệu quả 50% (EC50) trong khoảng 0,67 đến 2,66 µM trên tế bào A-549 và với nồng độ trong khoảng 0,32 đến 2,03 µM trên tế bào Vero E6. NHC có hoạt tính tương tự trên các biến thể SARS-CoV-2 B.1.1.7 (Alpha), B.1351 (Beta), P.1 (Gamma) và B.1.617.2 (Delta) với các giá trị EC50, tương ứng lần lượt là 1,59; 1,77; 1,32 và 1.68 µM.
Không quan sát thấy ảnh hưởng của NHC trên hoạt tính kháng vi rút in-vitro chống lại SARS-CoV-2 khi thử nghiệm kết hợp NHC với abacavir, emtricitabin, hydroxycloroquin, lamivudin, nelfinavir, remdesivir, ribavirin, sofosbuvir, hay fenofovir
Mối liên quan giữa NHC và NHC-TP nội bào với hiệu quả kháng vi rút chưa được đánh giá trên lâm sàng.
Kháng thuốc
Không có sự thay thế acid amin trong SARS-CoV-2 liên quan đến kháng NHC được xác định trong các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 2 đánh giá khả năng điều trị COVID-19 của molnupiravir. Các nghiên cứu đánh giá tính kháng chọn lọc với NHC của SARS-CoV-2 trong nuôi cấy tế bào chưa được hoàn thành.
An toàn và hiệu quả lâm sàng
Dữ liệu lâm sàng này dựa trên dữ liệu từ 1433 bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên trong thử nghiệm MOVe-OUT giai đoạn 3 (NCT04575597). Đây là một nghiên cứu lâm sàng mù đôi, có đối chứng giả được, ngẫu nhiên nghiên cứu khả năng điều trị của molnupiravir trên các bệnh nhân không nhập viện mắc COVID-19 nhẹ đến trung bình và có nguy cơ tiến triển nặng hoặc nhập viện.
Tiêu chuẩn lựa chọn đối với các đối tượng tham gia đủ điều kiện là đủ 18 tuổi trở lên và có một hoặc nhiều hơn các yếu tố nguy cơ được xác định trước bao gồm: 60 tuổi trở lên, tiểu đường, béo phì (BMI ≥ 30 kg/m2), bệnh thận mạn tính, bệnh lý tim mạch nghiêm trọng, bệnh viêm phổi tắc nghẽn mãn tính hoặc ung thư đang tiến triển.
Nghiên cứu bao gồm các bệnh nhân có triệu chứng, chưa được tiêm vắc xin phòng SARS-CoV-2 và những người đã được xác nhận nhiễm SARS-CoV-2 với các triệu chứng khởi phát trong vòng 5 ngày. Các bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên 1:1 để nhận 800 mg molnupiravir hoặc giả được, uống hai lần mỗi ngày trong 5 ngày.
Về cơ bản, ở tất cả các bệnh nhân được ngẫu nhiên hóa, độ tuổi trung bình là 43 tuổi (phạm vi từ: 18 đến 90 tuổi); 17% bệnh nhân trên 60 tuổi và 3% từ 75 tuổi trở lên, 49% bệnh nhân là nam giới, 57% là người da trắng, 5% da đen hoặc người Mỹ gốc Phi, 3% Châu Á, 50% gốc Tây Ban Nha hoặc Mỹ La-tinh. Phần lớn các bệnh nhân đăng ký tham gia từ các địa điểm ở Châu Mỹ La-tinh (46%) và Châu Âu (33%); 12% đăng ký Châu Phi, 6% đăng ký ở Bắc Mỹ và 3% đăng ký ở Châu Á.
Bốn mươi tám phần trăm bệnh nhân được dùng molnupiravir hoặc giả được trong vòng 3 ngày kể từ khi bắt đầu có triệu chứng của COVID-19. Các yếu tố nguy cơ phổ biến nhất là béo phì (74%), trên 60 tuổi (17%) và tiểu đường (16%).
Trong số 792 bệnh nhân (55% tổng bệnh nhân nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên) có kết quả xác định chủng/biến thể SARS-CoV-2 ban đầu, 58% nhiễm Delta (chủng B.1.617.2 và AY), 20% nhiễm Mu (B.1.621), 11% nhiễm Gamma (P.1), và phần còn lại bị nhiễm các biến thể/chủng khác.
Nhìn chung, các đặc điểm nhân khẩu học và tình trạng bệnh được phân bố cân đối giữa các nhóm điều trị.
Bảng 1 cung cấp kết quả của điểm kết thúc chính (tỷ lệ phần trăm bệnh nhân nhập viện hoặc tử vong trong vòng 29 ngày do bất kỳ nguyên nhân nào). Kết quả về hiệu quả dựa trên nhóm người trưởng thành chưa được tiêm vắc xin phòng đủ 18 tuổi trở lên và có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ được xác định trước đối với sự tiến triển của bệnh: Trên 60 tuổi, tiểu đường, béo phì (BMI ≥ 30 kg/m2), bệnh thận mạn tính, bệnh lý tim mạch nghiêm trọng, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính hoặc ung thư đang tiến triển.
Dữ liệu trên một số phân nhóm bệnh nhân có nguy cơ cao tiến triển thành tình trạng nhiễm COVID-19 nghiêm trọng theo định nghĩa của CDC1 chưa có sẵn.
Bảng 1: Kết quả về hiệu quả ở người lớn nhiễm COVID-19 không nhập viện*
Molnupiravir (N=709) n (%) |
Giả dược (N=699)
n (%) |
Chênh lệch nguy cơ*
%(95% CI) |
Tất cả các nguyên nhân dẫn đến nhập viện để điều trị tích cực ≥ 24 giờ hoặc tử vong trong 29 ngày | ||
48 (6,8%) | 68 (9,7%) | -3,0% (-5,9%, -0,1%) |
Tất cả các nguyên nhân dẫn đến tử vong trong 29 ngày | ||
1 (0,1%) | 9 (1,3%) | – |
* Việc xác định hiệu quả chính dựa trên phân tích giữa kỳ theo kế hoạch của 762 bệnh nhân. Tại phân tích giữa kỳ, 7,3% bệnh nhân dùng molnupiravir phải nhập viện hoặc tử vong trong 29 ngày (28/385), so với 14,1% bệnh nhân được điều trị bằng giả dược (53/377). Chênh lệch rủi ro điều chỉnh là -6,8% với 95% CI là (-11,3%, -2,4%) và 2-sided p-value=0,0024.
Mức giảm nguy cơ tương đối điều chỉnh của molnupiravir so với giả dược cho tất cả các bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên là 30% (CI 95%:1%, 51%).
Các phân tích được điều chỉnh bởi yếu tố phân tầng theo thời gian khởi phát triệu chứng COVID-19 (≤3 ngày so với >3 [4,5] ngày).
Hình 1: Kết quả hiệu quả trên các phân nhóm ở người lớn không nhập viện với COVID-19 – Tất cả các bệnh nhân đã được phân ngẫu nhiên
Khoảng tin cậy tương ứng dựa trên phương pháp Miettinen and Nurminen.
Dân số dự định điều trị là dân số phân tích hiệu quả.
Các mẫu huyết thanh ban đầu được đánh giá bằng xét nghiệm Roche Elecsys anti-N để kiểm tra sự hiện diện của các kháng thể (IgM, IgG và IgA) chống lại protein nucleocapsid của SARS-CoV-2. Các phát hiện trong các phân tích nhóm nhỏ này được xem như thăm dò.
Dược động học
Molnupiravir là một tiền chất 5′-isobutyrat, được thủy phân thành NHC trước khi hấp thu vào hệ tuần hoàn.
Đặc tính được động học của NHC trên bệnh nhân khỏe mạnh và bệnh nhân mắc COVID-19 tương tự nhau.
Các thông số dược động học của NHC ở trạng thái ổn định sau khi uống 800 mg molnupiravir mỗi 12 giờ được thể hiện trong bảng 2.
Bảng 2: Dược động học của NHC sau khi uống 800 mg Molnupiravir mỗi 12 giờ
Trung bình NHC (%CV) | ||
AUC0-12 giờ(ngxhr/mL)* | Cmax(ng/mL) + | C12 giờ(ng/mL)* |
8260 (41,0) | 2970 (16,8) | 31,1 (124) |
% CV: Hệ số biến thiên.
*: Các giá trị thu được từ phân tích được động học trên quần thể.
+: Các giá trị thu được từ một nghiên cứu giai đoạn 1 trên các bệnh nhân khỏe mạnh.
Hấp thu
Sau khi uống liều 800 mg. 2 lần/ngày, thời gian trung bình đạt nồng độ đinh của NHC (Tmax) là 1,5 giờ.
Phân bố và chuyển hóa
NHC không liên kết với protein huyết tương.
Thải trừ
Thời gian bán thải của NHC xấp xỉ 3,3 giờ. Không quá 3% liều được bài tiết đưới dạng NHC trong nước tiểu ởngười khỏe mạnh.
Nhóm bệnh nhân đặc biệt khác
Giới tính, chủng tộc, tuổi: Phân tích được động học ở các nhóm bệnh nhân cho thấy tuổi, giới tính, chủng tộc không ảnh hưởng có ý nghĩa trên đặc tính được động của NHC.
Bệnh nhân nhi: Molnupiravir chưa được nghiên cứu trên bệnh nhân nhi.
Suy thận:
Thải trừ qua thận không phải là con đường thải trừ chính của NHC. Không cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân suy thận ở tất cả các mức độ suy thận. Trong một phân tích được động học, suy thận nhẹ đến trung bình không ảnh hưởng có ý nghĩa trên đặc tính được động học của NHC. Đặc tính được động học của Molnupiravir và NHC không được đánh giá ở bệnh nhân có độ lọc cầu thận (eGFR < 30 ml/phút hoặc bệnh nhân đang được thẩm phân máu.
Suy gan:
Đặc tính được động học của molnupiravir và NHC chưa được đánh giá trên bệnh nhân suy gan. Dữ liệu cận lâm sàng chỉ ra rằng thải trừ qua gan không phải là con đường thải trừ NHC chính, do đó suy gan hầu như không ảnh hưởng đến sự phơi nhiễm với NHC. Không cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân suy gan.
CÁCH DÙNG:
Thuốc Molravir 400mg dạng viên nang cứng, được dùng theo đường uống, bạn có thể dùng cùng hoặc không cùng thức ăn.
Bệnh nhân nên uống nguyên viên thuốc với đủ lượng nước (ví dụ: 1 cốc nước). Khuyến cáo không mở, nghiền hoặc nhai viên thuốc.
Liều dùng
Người trưởng thành
Liều khuyến cáo: Dùng liều uống 800 mg molnupiravir (2 viên) mỗi 12 giờ trong 5 ngày.
Độ an toàn và hiệu quả của molnupiravir khi sử dụng trong khoảng thời gian dài hơn 5 ngày chưa được xác định.
Bệnh nhân COVID-19 nên uống molnupiravir sớm nhất có thể sau khi được chẩn đoán nhiễm virus và trong vòng 5 ngày kể từ khi bắt đầu khởi phát triệu chứng.
Giới hạn sử dụng:
- Không được sử dụng molnupiravir quá 5 ngày liên tiếp.
- Không được sử dụng molnupiravir để dự phòng trước hay sau phơi nhiễm.
- Không sử dụng để điều trị khởi đầu cho bệnh nhân cần nhập viện do COVID-19. Do chưa ghi nhận lợi ích của của molnupiravir khi khởi đầu sử dụng ở đối tượng bệnh nhân này. Các bệnh nhân đã được sử dụng trước khi nhập viện có thể tiếp tục sử dụng thuốc cho đủ liệu trình điều trị.
Trẻ em
Độ an toàn và hiệu quả của molnupiravir ở bệnh nhân dưới 18 tuổi chưa được xác định.
Không có dữ liệu trên đối tượng bệnh nhân trẻ em. Khuyến cáo không nên sử dụng thuốc cho trẻ em.
Đối tượng khác
Người cao tuổi: Không cần hiệu chỉnh liều molnupiravir ở bệnh nhân cao tuổi.
Người bị suy thận: Không cần hiệu chỉnh liều molnupiravir ở bệnh nhân suy thận.
Người bị suy gan: Không cần hiệu chỉnh liều molnupiravir ở bệnh nhân suy gan.
Liều dùng cụ thể tùy thuộc vào thể trạng và mức độ diễn tiến của bệnh. Để có liều dùng phù hợp, bạn cần tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc chuyên viên y tế.
Đánh giá Thuốc Molravir 400mg Boston điều trị Covid-19 nhẹ đến trung bình (20 viên)